Tốc độ tăng GDP năm 2023 đạt 5,05%

Nội dung yêu cầu không tồn tại.Vui lòng click vào đây để về trang chủ.

'Trong bối cảnh COVID-19 diễn biến phức tạp, ảnh hưởng tiêu cực tới mọi lĩnh vực kinh tế-xã hội thì tăng trưởng GDP năm 2020 đạt 2,91% là thành công lớn của Việt Nam.'

“GDP năm 2020 tăng 2,91% và là mức tăng thấp nhất trong giai đoạn 2011-2020. Tuy nhiên, trong bối cảnh dịch bệnh COVID-19 diễn biến phức tạp, ảnh hưởng tiêu cực tới mọi lĩnh vực kinh tế-xã hội thì đây là thành công lớn của Việt Nam với mức tăng trưởng năm 2020 thuộc nhóm cao nhất thế giới,” bà Nguyễn Thị  Hương, Tổng cục trưởng Tổng cục Thống kê trao đổi tại họp báo công bố thống kê kinh tế-xã hội quý 4 và cả năm 2020, ngày 27/12.

Bà Hương cho biết dịch COVID-19 được kiểm soát chặt chẽ, nền kinh tế từng bước hoạt động trở lại trong điều kiện bình thường mới, Hiệp định thương mại tự do giữa Việt Nam và Liên minh châu Âu (EU) có hiệu lực từ ngày 1/8... đã tạo động lực cho nền kinh tế, góp phần đưa GDP quý 4 tăng trưởng khởi sắc so với quý 3. Theo đó, tổng sản phẩm trong nước (GDP) quý 4 ước tính tăng 4,48% so với cùng kỳ năm trước, song đây cũng là mức tăng thấp nhất trong giai đoạn 2011-2020.

Như vậy, với mức tăng GDP của quý 1 là 3,68%, quý 2 tăng 0,39%, quý 3 tăng 2,69% và quý 4 tăng 4,48%, tổng sản phẩm trong nước cả năm 2020 tăng 2,91%. Đây là thành công lớn của Việt Nam khi mức tăng trưởng của cả năm thuộc nhóm cao nhất thế giới, trong bối cảnh dịch bệnh COVID-19 hoành hành.

“Điều này cho thấy tính đúng đắn trong chỉ đạo, điều hành khôi phục kinh tế, phòng chống dịch bệnh và sự quyết tâm, đồng lòng của toàn bộ hệ thống chính trị, Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ và sự nỗ lực, cố gắng của người dân, cộng đồng doanh nghiệp để thực hiện có hiệu quả mục tiêu vừa phòng chống dịch bệnh, vừa phát triển kinh tế-xã hội,” bà Hương nói.

Đáng chú ý, trong mức tăng chung của toàn nền kinh tế, khu vực nông-lâm nghiệp và thủy sản tăng 2,68%, đóng góp 13,5% vào tốc độ tăng tổng giá trị tăng thêm của toàn nền kinh tế. Bên cạnh đó, khu vực công nghiệp và xây dựng tăng 3,98%, đóng góp 53% và khu vực dịch vụ tăng 2,34%, đóng góp 33,5%.

Chỉ ra một số điểm nhấn tạo động lực tăng tưởng, bà Hương cho hay trong khu vực nông-lâm nghiệp và thủy sản, sản lượng của một số cây lâu năm và sản phẩm chăn nuôi trong năm có mức tăng khá nên tốc độ tăng của khu vực này đạt cao hơn năm 2019. Nhờ đó, ngành nông nghiệp có mức tăng 2,55%, chỉ thấp hơn mức tăng của các năm 2011, năm 2012 và năm 2018, đóng góp 0,29 điểm phần trăm vào tổng giá trị tăng thêm của toàn nền kinh tế.

Bên cạnh đó, khu vực công nghiệp tăng 3,36% so với năm trước và đóng góp 1,12 điểm phần trăm; trong đó công nghiệp chế biến, chế tạo đóng vai trò chủ chốt dẫn dắt tăng trưởng của nền kinh tế với mức tăng 5,82% và đóng góp 1,25 điểm phần trăm.

Tuy nhiên, dịch COVID-19 đã ảnh hưởng nghiêm trọng đến hoạt động thương mại, dịch vụ. Do đó, khu vực dịch vụ có mức tăng thấp nhất trong 10 năm qua. Một số ngành dịch vụ thị trường đóng góp tỷ trọng lớn vào tốc độ tăng tổng giá trị tăng thêm, như bán buôn và bán lẻ tăng 5,53% so với năm trước, đóng góp 0,61 điểm phần trăm; hoạt động tài chính, ngân hàng và bảo hiểm tăng 6,87%, đóng góp 0,46 điểm phần trăm.

Về cơ cấu nền kinh tế năm 2020, bà Hương cho hay khu vực nông-lâm nghiệp và thủy sản chiếm tỷ trọng 14,85%, khu vực công nghiệp và xây dựng chiếm 33,72%, khu vực dịch vụ chiếm 41,63%, thuế sản phẩm trừ trợ cấp sản phẩm chiếm 9,8% (cơ cấu tương ứng của năm 2019 là 13,96%; 34,49%; 41,64%; 9,91%).

Điểm nổi bật, năng suất lao động của toàn nền kinh tế theo giá hiện hành năm 2020 ước tính đạt 117,9 triệu đồng/lao động (tương đương 5.081 USD/lao động và tăng 290 USD so với năm 2019). Theo giá so sánh, năng suất lao động tăng 5,4% do trình độ của người lao động ngày càng được nâng cao (tỷ lệ lao động qua đào tạo có bằng cấp, chứng chỉ năm 2020 đạt 24,1% và cao hơn mức 22,8% của năm 2019).

Trước đó, chỉ số hiệu quả sử dụng vốn đầu tư (hệ số ICOR) đã giảm từ 6,42 năm 2016 xuống 6,08 năm 2019. Bình quân giai đoạn 2016-2019, hệ số ICOR đạt 6,13, và thấp hơn so mức 6,25 của giai đoạn 2011-2015.

“Tuy nhiên trong năm 2020, do ảnh hưởng tiêu cực của dịch COVID-19 khiến hoạt động sản xuất kinh doanh của nền kinh tế bị đình trệ, các dự án công trình hoàn thành đưa vào sử dụng chưa phát huy được năng lực nên ICOR năm 2020 đạt 14,28 và khiến bình quân giai đoạn 2016-2020 hệ số ICOR là 7,04,” bà Hương nói.

Bà Nguyễn Thị  Hương, Tổng cục trưởng Tổng cục Thống kê phát biểu:

Theo báo cáo của Tổng cục Thống kê, ước tính tổng sản phẩm trong nước (GDP) năm 2021 tăng 2,58% và đây cũng là mức tăng thấp nhất trong giai đoạn 2011-2021 do ảnh hưởng nặng nề của đại dịch Covid-19.

Tổng cục Thống kê cho biết, ước tính GDP năm 2021 tăng 2,58% là kết quả từ quý I tăng 4,72%; quý II tăng 6,73%; quý III giảm 6,02% và quý IV tăng 5,22%. Tăng trưởng GDP năm nay thấp hơn cả năm 2020 do dịch Covid-19 ảnh hưởng nghiêm trọng tới mọi lĩnh vực của nền kinh tế, đặc biệt là trong quý III khi nhiều địa phương kinh tế trọng điểm phải đình trệ sản xuất để thực hiện giãn cách xã hội kéo dài phòng chống dịch bệnh.

Trong mức tăng chung của toàn nền kinh tế, khu vực nông, lâm nghiệp và thủy sản tăng 2,9%, đóng góp 13,97% vào tốc độ tăng của tổng giá trị tăng thêm của toàn nền kinh tế. Khu vực công nghiệp và xây dựng tăng 4,05%, đóng góp 63,80%. Khu vực dịch vụ tăng 1,22%, đóng góp 22,23%.

Nếu chỉ tính riêng quý IV/2021, GDP ước tính tăng 5,22% so với cùng kỳ năm trước nhưng đều thấp hơn quý IV của các năm trong giai đoạn trước đại dịch 2011-2019.

Nông nghiệp là trụ cột của nền kinh tế

Trong khu vực nông, lâm nghiệp và thủy sản, năng suất của phần lớn cây trồng đạt khá so với năm trước, chăn nuôi tăng trưởng ổn định, kim ngạch xuất khẩu một số nông sản năm 2021 tăng cao góp phần duy trì nhịp tăng trưởng của cả khu vực.

Ngành nông nghiệp tăng 3,18%, đóng góp 0,29 điểm phần trăm vào tốc độ tăng tổng giá trị tăng thêm của toàn nền kinh tế, ngành lâm nghiệp tăng 3,88%, đóng góp 0,02 điểm phần trăm và ngành thủy sản tăng 1,73%, đóng góp 0,05 điểm phần trăm.

Năm nay, hoạt động nông, lâm nghiệp và thủy sản diễn ra trong tình hình thời tiết tương đối thuận lợi, giúp năng suất cây trồng và chăn nuôi đạt khá. Tuy nhiên, do ảnh hưởng của các biện pháp giãn cách xã hội kéo dài tại nhiều địa phương gây ảnh hưởng tới chuỗi cung ứng sản xuất – chế biến – tiêu thụ các sản phẩm nông, lâm nghiệp và thủy sản.

Dù vậy, kết quả sản xuất nông nghiệp năm 2021 của cả nước vẫn ở mức khá. Cụ thể, năng suất lúa ước đạt 60,6 tạ/ha, tăng 1,8 tạ/ha; sản lượng lúa đạt 43,88 triệu tấn, tăng 1,1 triệu tấn. Tuy nhiên, kết quả sản xuất một số cây hằng năm có sự giảm nhẹ như sản lượng ngô giảm 2,9% so với năm 2020; khoai lang giảm 11,2%; đậu tương giảm 9,5%...

Kết quả hoạt động năm 2021 của ngành nông nghiệp đã thể hiện rõ vai trò bệ đỡ của nền kinh tế, bảo đảm nguồn cung lương thực, thực phẩm, hàng hóa thiết yếu, là cơ sở quan trọng để thực hiện an sinh, an dân trong đại dịch.

Ngành công nghiệp chế biến chế tạo là động lực tăng trưởng chính

Trong khu vực công nghiệp và xây dựng, ngành công nghiệp chế biến, chế tạo tiếp tục là động lực tăng trưởng của toàn nền kinh tế với tốc độ tăng 6,37%, đóng góp 1,61 điểm phần trăm vào tốc độ tăng tổng giá trị tăng thêm của toàn nền kinh tế. Ngành sản xuất và phân phối điện tăng 5,24%, đóng góp 0,19 điểm phần trăm. Ngành khai khoáng giảm 6,21%, làm giảm 0,23 điểm phần trăm do sản lượng dầu mỏ thô khai thác giảm 5,7% và khí đốt thiên nhiên dạng khí giảm 19,4%. Ngành xây dựng tăng 0,63%, đóng góp 0,05 điểm phần trăm.

Đây là kết quả khởi sắc của ngành sau khi các địa phương trên cả nước thực hiện Nghị quyết 128/NQ-CP ngày 11/10/2021 của Chính phủ về thích ứng an toàn, linh hoạt, kiểm soát hiệu quả dịch Covid-19

Về ngành công nghiệp chế biến, chế tạo, chỉ số tiêu thụ toàn ngành tháng 12/2021 tăng 5,9% so với tháng trước và tăng 7,9% so với cùng kỳ năm trước. Tính chung năm 2021, chỉ số tiêu thụ toàn ngành công nghiệp chế biến, chế tạo tăng 4,5% so với năm 2020 (năm trước tăng 3,3%).

Chỉ số tồn kho toàn ngành công nghiệp chế biến, chế tạo ước tính tới ngày 31/12/2021 tăng 0,1% so với cùng thời điểm tháng trước và tăng 21,9% so với cùng thời điểm năm trước (cùng thời điểm năm trước tăng 25,3%). Tỷ lệ tồn kho toàn ngành chế biến, chế tạo bình quân năm 2021 là 79,1% (năm 2020 là 71,9%).

Thương mại, dịch vụ hồi phục sau đại dịch

Dịch Covid-19 diễn biến phức tạp từ cuối tháng 4 đã ảnh hưởng nghiêm trọng đến hoạt động thương mại và dịch vụ. Tăng trưởng âm của một số ngành dịch vụ chiếm tỷ trọng lớn đã làm giảm mức tăng chung của khu vực dịch vụ và toàn bộ nền kinh tế.

Ngành bán buôn, bán lẻ giảm 0,21% so với năm trước, làm giảm 0,02 điểm phần trăm trong tốc độ tăng tổng giá trị tăng thêm của toàn nền kinh tế, ngành vận tải kho bãi giảm 5,02%, làm giảm 0,3 điểm phần trăm, ngành dịch vụ lưu trú và ăn uống giảm mạnh 20,81%, làm giảm 0,51 điểm phần trăm.

Trong quý IV/2021, hoạt động thương mại, vận tải trong nước, khách du lịch quốc tế dần khôi phục trở lại. Tổng mức bán lẻ hàng hóa và doanh thu dịch vụ tiêu dùng quý IV/2021 tăng 28,1% so với quý trước; vận tải hành khách tăng 48,4%, luân chuyển hành khách tăng 51,3% và vận chuyển hàng hóa tăng 31,8%, luân chuyển hàng hóa tăng 28,4%; khách quốc tế đến nước ta tăng 62,7%.

Cụ thể, lượng khách quốc tế đến Việt Nam trong Quý IV/2021 đạt 42.700 lượt người, tăng 62,7% so với quý III/2021 và giảm 12,4% so với cùng kỳ năm 2020. Tính chung năm 2021, khách quốc tế đến nước ta ước đạt 157.300 lượt người, giảm 95,9% so với năm trước.

Ngược lại, do ảnh hưởng của dịch Covid-19, ngành y tế và hoạt động trợ giúp xã hội đạt tốc độ tăng cao nhất trong khu vực dịch vụ với mức tăng 42,75%, đóng góp 0,55 điểm phần trăm; hoạt động tài chính, ngân hàng và bảo hiểm tăng 9,42%, đóng góp 0,52 điểm phần trăm; ngành thông tin và truyền thông tăng 5,97%, đóng góp 0,36 điểm phần trăm.

Thị trường chứng khoán phát triển mạnh mẽ giữa đại dịch

Năm 2021, trong bối cảnh nền kinh tế gặp nhiều khó khăn do ảnh hưởng của dịch Covid-19, Ngân hàng Nhà nước Việt Nam đã điều hành lãi suất phù hợp, tạo điều kiện để các tổ chức tín dụng tiếp tục giảm lãi suất cho vay, hỗ trợ nền kinh tế phục hồi. Tính đến 24/12. tăng trưởng tín dụng của nền kinh tế đạt 12,97%.

Hoạt động kinh doanh bảo hiểm ổn định, ước tính cả năm 2021 doanh thu phí toàn thị trường bảo hiểm tăng 15,6% so với năm trước, trong đó doanh thu phí bảo hiểm lĩnh vực nhân thọ tăng 21,7%; lĩnh vực bảo hiểm phi nhân thọ tăng 1,7%.

Thị trường chứng khoán phát triển mạnh với mức vốn hóa thị trường cổ phiếu năm 2021 tăng 45,5% so với cuối năm trước. Tính đến ngày 27/12/2021, giá trị giao dịch bình quân trên thị trường cổ phiếu đạt 26.526 tỷ đồng/phiên, tăng 257,5% so với bình quân năm trước. Giá trị giao dịch bình quân trên thị trường trái phiếu đạt 11.421 tỷ đồng/phiên, tăng 9,9%. Khối lượng giao dịch bình quân sản phẩm hợp đồng tương lai trên chỉ số VN30 trên thị trường chứng khoán phái sinh đạt 189.923 hợp đồng/phiên, tăng 21%.

Thu hút vốn đầu tư FDI hồi phục trong những tháng cuối năm

Vốn đầu tư thực hiện toàn xã hội theo giá hiện hành năm 2021 đạt 2.891,9 nghìn tỷ đồng, tăng 3,2% so với năm trước, tuy đây là mức tăng thấp nhất trong nhiều năm qua nhưng là kết quả khả quan trong bối cảnh đại dịch Covid-19 diễn biến phức tạp trong nước và trên thế giới.

Trong khi vốn từ khu vực Nhà nước và khu vực có vốn đầu tư trực tiếp từ nước ngoài giảm (lần lượt là 2,9% và 1,1%) so với năm trước thì vốn từ khu vực ngoài Nhà nước lại tăng mạnh 7,2% và chiếm tỉ trọng 59,5%.

Thu hút vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI) phục hồi, vốn đăng ký mới và vốn đăng ký tăng thêm tăng trở lại cho thấy nhà đầu tư nước ngoài tiếp tục tin tưởng vào môi trường đầu tư Việt Nam.

Tính đến ngày 20/12/2021 bao gồm vốn đăng ký cấp mới, vốn đăng ký điều chỉnh và giá trị góp vốn, mua cổ phần của nhà đầu tư nước ngoài đạt 31,15 tỷ USD, tăng 9,2% so với năm 2020.

Trong năm 2021 vốn đầu tư của Việt Nam ra nước ngoài có sự tăng nhẹ với 61 dự án được cấp mới giấy chứng nhận đầu tư với tổng số vốn của phía Việt Nam là 409,1 triệu USD, tăng 28,6% so với năm trước; có 22 lượt dự án điều chỉnh vốn đầu tư với tổng vốn điều chỉnh giảm 776 triệu USD.

Do tháng 12/2021, Tập đoàn Dầu khí Quốc gia Việt Nam đã điều chỉnh vốn giảm 1,2 tỷ USD của dự án thăm dò phát triển và khai thác dầu khí tại Nga. Nếu không tính dự án này, tổng vốn đầu tư của Việt Nam ra nước ngoài (vốn cấp mới và điều chỉnh) năm 2021 đạt 828,7 triệu USD.

Thu ngân sách Nhà nước vượt dự toán 13%

Nhờ hoạt động sản xuất kinh doanh của nền kinh tế tiếp tục phục hồi giúp cho thu ngân sách Nhà nước ước tính cả năm 2021 đạt 1.523,4 nghìn tỷ đồng và vượt dự toán năm 13,4% (tăng 180,1 nghìn tỷ đồng).

Chi ngân sách Nhà nước tập trung ưu tiên cho công tác phòng, chống dịch Covid-19, khắc phục thiên tai, đảm bảo quốc phòng, an ninh và hỗ trợ người dân gặp khó khăn do ảnh hưởng của dịch bệnh. Tổng chi ngân sách Nhà nước năm 2021 ước tính đạt 1.839,2 nghìn tỷ đồng, bằng 109% dự toán năm.

Về cơ cấu nền kinh tế năm 2021, khu vực nông, lâm nghiệp và thủy sản chiếm tỷ trọng 12,36%; khu vực công nghiệp và xây dựng chiếm 37,86%; khu vực dịch vụ chiếm 40,95%; thuế sản phẩm trừ trợ cấp sản phẩm chiếm 8,83%.

Về sử dụng GDP năm 2021, tiêu dùng cuối cùng tăng 2,09% so với năm 2020; tích lũy tài sản tăng 3,96%; xuất khẩu hàng hóa và dịch vụ tăng 14,01%; nhập khẩu hàng hóa và dịch vụ tăng 16,16%.