Với tác giả, tác phẩm Hoàng Hạc lâu Ngữ văn lớp 12 Chân trời sáng tạo hay nhất, chi tiết trình bày đầy đủ nội dung chính quan trọng nhất về tác phẩm Hoàng Hạc lâu.
II. Tìm hiểu văn bản Hoàng Hạc lâu
- Tác phẩm Hoàng Hạc lâu thuộc thể loại: thất ngôn bát cú Đường luật.
- In trong Tự học Hán văn, Nguyễn Khuê, NXB Thành phố Hồ Chí Minh, 1995, tr99 – 101)
- Phương thức biểu đạt: biểu cảm.
- Phần 1 (Bốn câu đầu): sự tiếc nuối quá khứ với hạc vàng đã bay đi mất, với mây trắng nghìn năm.
- Phần 2 (Bốn câu cuối): nỗi niềm hiện tại, trước cảnh đẹp của lầu Hoàng Hạc, lòng chạnh buồn nhớ đến quê hương.
- Với những phá cách độc đáo và thủ pháp đối lập được sử dụng hiệu quả, bài thơ miêu tả lầu Hoàng Hạc nhưng lại thể hiện được sâu sắc nỗi hoài vọng về thời xa xưa cùng nỗi nhớ quê hương của nhà thơ.
III. Tìm hiểu chi tiết văn bản Hoàng Hạc lâu
- Chim hạc vàng (linh thiêng, cao quý): cõi tiên, huyền ảo (bay mất)
- Lầu Hoàng Hạc: cõi trần (còn lại)
Tích nhân dĩ thừa hoàng hạc khứ
Thử địa không dư Hoàng Hạc lâu.
- Ở cặp câu này có sự đối nhau rất chỉnh, đó là:
+ Đối lập giữa quá khứ với hiện tại (tích nhân – thử địa, hoàng hạc khứ - Hoàng Hạc lâu).
=> Với sự đối ngẫu trong một “liên” này, câu thơ đã truyền tải được tâm trạng của nhân vật trữ tình, đó là sự hẫng hụt – nuối tiếc. Nuối tiếc một điều quý giá đã qua và không bao giờ trở lại nữa.
Hoàng hạc nhất khứ bất phục phản
- Vẫn nói chuyện hạc vàng bay đi không trở lại nhưng ở đây không chỉ có sự đối lập giữa cõi tiên và cõi tục. Hạc vàng đã bay về cõi tiên nên nơi đây, dưới còn trơ lại lầu Hoàng Hạc, trên trời mây trắng bay chơi vơi, dường như còn mong nhớ tiếc nuối điều gì đó.
- 4 câu thơ đầu tập trung tả cảnh và giải thích lầu Hoàng Hạc. Bàn chuyện xưa và nay để thể hiện suy nghĩ mang tính triết lí nhân sinh sâu sắc, triết lí về sự còn – mất, về sự vô hạn và hữu hạn của trời đất và nhân sinh.
+ Trong 3 câu thơ đầu, tác giả lặp đi lặp lại tới 3 từ hoàng hạc
=> Hạc vàng là biểu tượng cho những điều quý giá và đẹp đẽ nhưng không trở lại nữa. Việc nhắc lại nhiều lần như vậy làm nổi bật tâm trạng của con người đối với những điều quý giá đã qua.
+ Câu thơ thứ 4 sử dụng tới 5/7 thanh bằng đã gợi tả rất thành công cảm giác hẫng hụt và tiếc nuối; thể hiện vẻ ngưng trệ như không muốn trôi đi của những đám mây.
Tình xuyên lịch lịch Hán Dương thụ
Phương thảo thê thê Anh Vũ châu
+ Ánh nắng soi xuống dòng sông.
+ Màu xanh tươi của cỏ cây mùa xuân.
(bức họa lầu Hoàng Hạc soi bóng dòng Trường Giang)
- 2 câu luận nhưng lại tả thực và có sự đối ngẫu:
+ Câu thơ mở ra một không gian rộng và sáng trong. Một cảnh cõi trần thật đẹp, có ánh nắng soi xuống dòng sông như một tấm gương khổng lồ với hàng cây tươi tốt soi bóng.
+ Giữa mặt sông sáng trong ấy là màu xanh tươi mơn mởn của cỏ cây mùa xuân.
=> Sau những phút giây đắm chìm cùng huyền thoại, nhân vật trữ tình lại trở về với hiện thực. Một bức họa thật đẹp được dựng lên: bức họa về một lầu Hoàng Hạc soi bóng dòng Trường Giang và cùng với hình ảnh của cây cối, của cỏ xanh.
Yên ba giang thượng sử nhân sầu.
- 2 câu kết tạo ra sự đối lập với 2 câu luận:
+ Đối lập giữa không gian thực – không gian tâm tưởng.
+ Có sự chuyển động về thời gian, từ khi ánh nắng còn chan hòa đã chuyển sang buổi hoàng hôn mờ khói.
=> Trong thơ ca cổ, các nhà thơ Đường có thói quen sử dụng các hình ảnh ước lệ, tượng trưng, nhất là hay dùng thiên nhiên để gợi tả tâm trạng mà “hoàng hôn nhớ nhà” là một tứ thơ quen thuộc của Đường thi.
- Ngoài nỗi nhớ quê hương, nếu nối với mạch cảm xúc toàn bài thơ có thể hiểu thêm rằng "hương quan hà xứ thị" không chỉ là câu hỏi quê hương ở nơi nào mà còn có thể hiểu rộng là: Nơi nào để dừng chân? Nơi nào là nơi có thể là bình yên để sống? => Đây là vấn đề có ý nghĩa triết lí.
=> 4 câu thơ cuối cùng với ba mảng cảm xúc dồn nén (cõi tiên, cảnh thực và nỗi sầu nhớ), bài thơ nói về một di tích xưa mà vẫn gắn bó với cuộc đời, con người, khơi lên những tình cảm nhân bản đẹp đẽ, hàm chứa quan niệm nhân sinh tích cực, tiến bộ.
Các bài học giúp bạn để học tốt bài Hoàng Hạc lâu Ngữ văn lớp 12 hay khác:
Xem thêm tóm tắt tác giả tác phẩm Ngữ Văn lớp 12 Chân trời sáng tạo hay, chi tiết khác:
Xem thêm các tài liệu học tốt lớp 12 hay khác:
ĐỀ THI, GIÁO ÁN, GÓI THI ONLINE DÀNH CHO GIÁO VIÊN VÀ PHỤ HUYNH LỚP 12
Bộ giáo án, đề thi, bài giảng powerpoint, khóa học dành cho các thầy cô và học sinh lớp 12, đẩy đủ các bộ sách cánh diều, kết nối tri thức, chân trời sáng tạo tại https://tailieugiaovien.com.vn/ . Hỗ trợ zalo VietJack Official
Giải bài tập lớp 12 Chân trời sáng tạo khác
Melde dich an, um fortzufahren.
Tailieumoi.vn xin giới thiệu đến các quý thầy cô, các em học sinh lớp 10 tài liệu tác giả tác phẩm Lầu Hoàng Hạc (Hoàng Hạc Lâu) hay nhất, gồm 6 trang gồm đầy đủ những nét chính về văn bản như:
Các nội dung được Giáo viên nhiều năm kinh nghiệm biên soạn chi tiết giúp học sinh dễ dàng hệ thống hóa kiến thức từ đó dễ dàng nắm vững được nội dung tác phẩm Lầu Hoàng Hạc (Hoàng Hạc Lâu) Ngữ văn lớp 10.
Mời quý bạn đọc tải xuống để xem đầy đủ tài liệu tác phẩm Lầu Hoàng Hạc (Hoàng Hạc Lâu) Ngữ văn lớp 10:
Tích nhân dĩ thừa hoàng hạc khứ,
Thử địa không dư Hoàng Hạc lâu.
Hoàng hạc nhất khứ bất phục phản,
Bạch vân thiên tải không du du.
Tình xuyên lịch lịch Hán Dương thụ,
Phương thảo thê thê Anh Vũ châu.
Yên ba giang thượng sử nhân sầu.
Người xưa đã cưỡi hạc vàng bay đi,
Nơi đây chỉ còn trơ lại lầu Hoàng Hạc.
Hạc vàng một khi đã bay đi, không bao giờ trở lại,
Mây trắng ngàn năm còn bay chơi vơi.
Hàng cây đất Hán Dương phản chiếu rõ mồn một trên dòng sông tạnh,
Trên bãi Anh Vũ cỏ thơm mơn mởn xanh tươi.
Chiều tối [tự hỏi] đâu là quê hương?
Khói và sóng trên sông khiến cho người buồn.
Mà đây Hoàng Hạc riêng lầu còn trơ.
Nghìn năm mây trắng bây giờ còn bay.
Quê hương khuất bóng hoàng hôn,
Trên sông khói sóng cho buồn lòng ai?
Trơ lầu Hoàng Hạc chốn này thôi!
Mây trắng ngàn năm bay chơi vơi.
Sông tạnh Hán Dương cây sáng ửng,
Khói sóng trên sông não dạ người.
- Thôi Hiệu (704 – 754), quê ở Biện Châu (nay là thành phố Khai Phong, tỉnh Hà Nam, Trung Quốc).
- Đỗ tiến sĩ năm khai nguyên thứ 11 (723), làm quan đến chức Tư Huân Viên ngoại lang.
- Thơ ông còn truyền lại hơn 40 bài, một số lượng không nhiều so với các nhà thơ đương thời. Song chỉ với Hoàng Hạc lâu, tên tuổi của ông đã lưu danh thiên cổ.
- Các tác phẩm chính: Hành kinh Hoa Âm (Đi qua Hoa Âm), Hoàng Hạc lâu (Lầu Hoàng Hạc), Trường Can hành kỳ 1, Trường Can hành kỳ 2, Trường Can hành kỳ 3, Trường Can hành kỳ 4, Vị Thành thiếu niên hành (bài Hành tuổi trẻ thành Vị), Nhập Nhược Da khê (Vào suối Nhược Da), Cổ ý (Ý xưa), Mạnh Môn hành (Bài hành qua Mạnh Môn), Nhạn Môn Hồ nhân ca (Bài ca của người Hồ ở Nhạn Môn)…
- Hoàng Hạc lâu: tên một di tích văn hóa nổi tiếng ở phía Tây Nam huyện Vũ Xương, tỉnh Hồ Bắc, Trung Quốc. Nằm trên bờ sông Trường Giang, lầu Hoàng Hạc còn là một danh lam thắng cảnh sơn thủy hữu tình, nơi mà Lí Bạch đã có cảm hứng viết về cuộc chia tay với cố nhân. Đây cũng là nơi truyền thuyết xưa nói rằng Phí Văn Vi buồn vì thi hỏng tu luyện thành tiên cưỡi hạc vàng bay lên tiên.
b. Hoàn cảnh ra đời: Đến thăm lầu Hoàng Hạc, nhà thơ đã nhớ đến huyền thoại xưa, nuối tiếc điều tốt đẹp đã qua và suy ngẫm về cuộc sống. Nhà thơ đã thổi linh hồn vào lầu Hoàng Hạc, nhắc lại chuyện người xưa để thể hiện một quan niệm nhân sinh sâu sắc.
c. Thể loại: Thất ngôn bát cú Đường luật.
- 4 câu thơ đầu: Đề cập trực tiếp đến nguồn gốc, tên gọi và định vị lầu Hoàng Hạc ở phương diện thời gian.
- 4 câu cuối: Định vị lầu trong không gian, miêu tả thiên nhiên và trực tiếp biểu hiện tâm trạng.
e. Giá trị nội dung: Bài thơ miêu tả khung cảnh ở lầu Hoàng Hạc nhưng chủ yếu bộc lộ nỗi hoài vọng về thời xa xưa cùng nỗi nhớ quê hương da diết của nhà thơ.
- Những phá cách độc đáo: không kết vần (câu 1, 2 các thanh trắc, thanh bằng đi liền nhau...),...
- Thủ pháp đối lập được sử dụng hiệu quả.
Tích nhân dĩ thừa hoàng hạc khứ,
Thử địa không dư Hoàng Hạc lâu.
Hoàng hạc nhất khứ bất phục phản,
Bạch vân thiên tải không du du.
Mà đây Hoàng Hạc riêng lầu còn trơ.
Nghìn năm mây trắng bây giờ còn bay.)
- Câu thơ đầu tiên là một câu thơ phá luật.
- Chữ thứ 2 lẽ ra phải thanh trắc thì ở đây lại thanh bằng.
- Chữ thứ 8 lẽ ra phải vần với chữ thứ 8 các câu 4, 6, 8 và có thanh bằng thì ở đây lại thất vận và dùng thanh trắc.
→ Tất cả những điều đó đã làm cho câu thơ mang nhịp điệu man mác và diễn tả nối bàng hoàng đến ngẩn ngơ trước thực tại: người tiên và hạc vàng còn đâu nữa
- Nhà thơ không tả về cái đang có mà nhớ về một cái đã có và đã mất: Người xưa đã cưỡi hạc vàng bay đi để nơi đây chỉ còn trơ lại lầu Hoàng Hạc mà thôi.
→ Sự hụt hẫng, trống vắng, nuối tiếc trong tâm hồn nhà thơ.
+ Diễn tả sự thật tàn nhẫn, sự bừng tỉnh đến bàng hoàng nhận ra, và nhân vật trữ tình lại càng thấm thía nỗi mất mác.
+ Ba chữ cuối không du du: diễn tả đám mây trắng nhẹ nhàng trong không trung, một đám mây đã trở thành vĩnh hằng, ngàn năm bay mãi, vô tận, muôn đời.
→ Bầu trời nhuốm màu tâm trạng của thi nhân, và phải chăng trong cái hiện hữu của đời người hẳn đã chứa bao cái muôn đời của muôn người.
Tình xuyên lịch lịch Hán Dương Thụ,
Phương thảo lê thê Anh Vũ châu.
Yên ba giang thượng sử nhân sầu.
Quê hương khuất bóng hoàng hôn,
Trên sông khói sóng cho buồn lòng ai?)
→ Cảnh đẹp, tươi tắn, bình dị nhưng lại vắng lặng, yên tĩnh như một bức tranh tĩnh vật. Một nỗi niềm u buồn phảng phất đâu đây.
- Màu xanh thăm thẳm của cỏ non làm nhà thơ nhói đau, kéo trở về với lòng mình và chợt nhận ra mình đang xa cách cố hương.
- Hình ảnh thơ khói sóng làm người đọc bâng khuâng hiểu, đó là sóng trên sông hay là sóng lòng, là nỗi niềm tâm can của nhân vật trữ tình. → Một nỗi buồn xa xứ, một nỗi nhớ quê.
- Từ sầu kết thúc bài thơ và cũng là từ thể hiện trực tiếp tâm trạng nhân vật trữ tình. Câu thơ dường như bất tận, bài thơ dường như ngân vang mãi bằng âm điệu gợi lên từ từ "sầu".
⇒ Một nỗi buồn dày đặc, miên man mãi đến vô cùng, vô tận.
Truyện ngắn Một người Hà Nội đã thể hiện sự trân trọng cũng như khao khát lưu giữ vẻ đẹp văn hóa của người Hà Nội trước những biến động của thời đại.Sau đây, Download.vn sẽ giới thiệu đến bạn đọc đôi nét về Nguyễn Khải, cùng với nội dung của tác phẩm Một người Hà Nội.
- Nguyễn Khải (1930 - 2008), tên khai sinh là Nguyễn Mạnh Khải, sinh tại Hà Nội nhưng từng sống ở rất nhiều nơi.
- Năm 1947, ông gia nhập vào đội tự vệ chiến đấu ở thị xã Hưng Yên, sau đó vào bộ đội, làm y tá rồi làm báo.
- Năm 1951, ông làm công tác tuyên huấn ở Phòng chính trị Quân khu III.
- Năm 1952, ông làm Thư ký của tòa soạn báo Chiến sĩ Quân khu III.
- Từ năm 1956, ông công tác ở tòa soạn tạp chí Văn nghệ Quân đội, là Ủy viên Ban Chấp hành Hội Nhà văn Việt Nam.
- Sau năm 1975, ông chuyển vào sinh sống, công tác tại Thành phố Hồ Chí Minh.
- Nguyễn Khải bắt đầu viết văn từ năm 1950.
- Năm 1951, ông được tặng giải khuyến khích về văn xuôi trong cuộc thi văn nghệ 1951 - 1952.
- Một số tác phẩm: Mùa lạc (tập truyện ngắn, 1960), Một chặng đường (truyện dài, 1962), Họ sống và chiến đấu (ký sự, 1966), Hòa vang (bút ký, 1967), Đường trong mây (tiểu thuyết, 1970)...